Không còn bình tĩnh như ở phiên tòa sơ thẩm, đến phiên tòa phúc thẩm, sau khi nghe hội đồng xét xử tuyên bác kháng cáo, giữ nguyên mức án tử hình về tội vận chuyển trái phép chất ma túy, bị cáo N.T.T (sinh năm 1998, trú tỉnh Quảng Trị) đứng sững một lúc, rồi nặng nề lê bước về nơi giam.
T. bị bắt giữ tại huyện Vạn Ninh khi đang vận chuyển trái phép gần 7kg ma túy Ketamine từ tỉnh Quảng Trị vào TP. Hồ Chí Minh.
Luật sư bào chữa cho bị cáo khẳng định, tội danh đã tuyên cho bị cáo là xác đáng. Nhưng về tâm lý, bị cáo rất mong nhận được sự khoan hồng của pháp luật. Điều này cũng có những căn nguyên riêng. Thời điểm xảy ra vụ án, cả nước đang gồng mình chống dịch Covid-19, thực hiện giãn cách, cách ly xã hội. Do không thể kiếm việc làm, bị cáo lâm vào cảnh túng thiếu, lại thêm thiếu hiểu biết pháp luật nên đã hám lợi mà phạm tội. Hành vi của bị cáo đặc biệt nghiêm trọng, tất cả là do bị cáo nông nổi, suy nghĩ đơn giản, chỉ muốn kiếm chút tiền công từ việc vận chuyển. Bị cáo đã rất ăn năn hối cải, thành khẩn nhận tội; lại chưa từng có tiền án, tiền sự. Đặc biệt, bị cáo có tình tiết giảm nhẹ khác là gia đình có nhiều người có công lớn với cách mạng và có tới 3 liệt sĩ. Bản thân bị cáo là con trai độc nhất của cả gia đình, dòng họ. Với hoàn cảnh, nhân thân đó, bị cáo hoàn toàn có thể cải tạo, trở về làm ăn lương thiện.
Nghe luật sư bào chữa xong, bị cáo T. ngước nhìn hội đồng xét xử đầy hy vọng được giảm hình phạt.
Vị chủ tọa phân tích: Đúng là nhân thân của bị cáo rất “sạch”, là tình tiết có thể cân nhắc để giảm nhẹ hình phạt. Tòa cũng thấu hiểu hoàn cảnh khó khăn của bị cáo trong đợt dịch. Nhưng nhìn rộng ra lại thấy, không riêng bị cáo khó khăn, nhưng đâu phải tất cả đều phạm tội? Bản thân bị cáo cũng thừa nhận số lượng ma túy đã vận chuyển đặc biệt lớn và nhận thức được số ma túy đó có thể làm hại rất nhiều người, ảnh hưởng đến tình hình an ninh trật tự xã hội, gây ra nhiều hệ lụy khác. Điều tra cho thấy, không chỉ vận chuyển 1 lần, bị cáo vận chuyển tới 4 lần, lần ít nhất khoảng 6kg, lần nhiều nhất chừng 10kg. Với tính chất đặc biệt nghiêm trọng, mức độ vi phạm nhiều lần như vậy, việc cải tạo, giáo dục đối với bị cáo đã không còn tác dụng. Do đó, bị cáo cần phải chịu mức án cao nhất để giáo dục, phòng ngừa chung cho xã hội.
Lê bước về nơi giam, bị cáo T. dường như đã ngấm cảm giác ân hận sâu sắc. Lúc này, nhân thân “đẹp” chỉ trở thành nỗi xấu hổ, day dứt lớn hơn đối với bị cáo.
TAM THUẬT