Ông bà L. (TP. Nha Trang) không nghĩ có ngày phải kiện vợ chồng con trai út ra tòa để yêu cầu hủy hợp đồng tặng cho tài sản, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất đã cấp cho 2 con và đòi lại 2 căn nhà.
Năm 2005, anh H. kết hôn và sống cùng ông bà L. Sau 5 năm, ông bà L. làm hợp đồng tặng cho vợ chồng anh căn nhà đang ở, đồng thời nhờ hai con đứng tên giùm căn nhà ông bà cho thuê. Năm 2015, vợ anh H. bỏ về ngoại, xin ly hôn và treo biển cho thuê căn nhà đang ở. Lúc này, ông bà L. mới phát hiện, hợp đồng cho nhà không nêu rõ điều kiện tặng cho. Trước đó 1 năm, anh H. lại làm hợp đồng tặng cho con gái (8 tuổi) 1/2 căn nhà đang ở. Nghĩa là, vợ và con gái anh đồng sở hữu nhà; vợ anh lại là giám hộ duy nhất của con. Cũng năm đó, anh H. còn làm hợp đồng tặng cho vợ 1/2 căn nhà đang cho thuê và giấy chứng nhận đã chỉnh lý đứng tên vợ anh. Điều đó đồng nghĩa, vợ anh H. đang đứng tên cả 2 căn nhà!
Trong hồ sơ, vợ anh H. nêu, sau khi được cha mẹ cho nhà, hai vợ chồng đã bỏ ra 400 triệu đồng, cha mẹ thêm một phần để xây lại. Còn căn nhà cho thuê, vợ chồng chị đã mua với giá hơn 1 tỷ đồng, chỉ vay cha mẹ chồng 500 triệu đồng, nhưng đã trả 40 triệu đồng. Do đó, chị chỉ trả lại phần cha mẹ góp xây dựng và cho vay.
Nhưng tại tòa, anh H. khẳng định, đối với căn nhà được cho, lúc đó vợ yêu cầu anh phải tặng cho con 1/2 nhà đất để bảo đảm không mất quyền lợi do nghi anh quan hệ ngoài luồng. Căn nhà cho thuê là cha mẹ nhờ vợ chồng anh đứng tên. Một lần, anh nói vợ đưa giấy tờ nhà để thế chấp vay 200 triệu đồng làm ăn, vợ lại ra điều kiện anh phải lập hợp đồng tặng cho vợ 1/2 căn nhà mới đưa đủ tiền. Nhưng khi ký hợp đồng xong, vợ anh đã không đưa tiền, mà còn xúc tiến làm thủ tục đứng tên nhà đất một mình. Anh đã tố cáo hành vi lừa đảo này với công an.
Những chứng cứ luật sư đưa ra cũng rất quan trọng. 3 tháng trước khi cho nhà, ông bà L. đã lập “Lời căn dặn của cha mẹ trước khi cho các con thừa kế quyền sử dụng đất, quyền sử dụng nhà ở và tài sản gắn liền với đất”, có xác nhận của ông bà, các con và dâu trưởng. Theo đó, sau khi nhận nhà, vợ chồng anh H. có nghĩa vụ chăm sóc cha mẹ đến khi qua đời, ông bà L. có quyền ở tại đây đến hết đời. Trước khi ông bà L. bỏ tiền xây lại nhà, anh H. còn viết cam kết không tự ý sang nhượng, cho thuê, thế chấp, tặng cho nhà đất. Hợp đồng xây dựng, chứng từ thanh toán xây nhà đều đứng tên ông bà L. Như vậy, việc anh H. tặng nhà cho con là trái với mong muốn, điều kiện tặng cho của cha mẹ, xâm phạm quyền được sinh sống, sử dụng nhà của ông bà L. Việc anh H. ly hôn cũng cho thấy điều kiện cho nhà của ông bà L. là để các con sống hạnh phúc cũng không đạt được. Đối với căn nhà cho thuê, anh H. có bản cam kết đứng tên hộ. Sau khi bị chồng tố cáo, vợ anh H. cũng khai với công an nhà thuê của cha mẹ chồng. Ngân hàng xác nhận, bà L. đã rút tiền vào đúng ngày mua nhà. Người bán nhà cũng xác nhận nhận tiền từ bà L. Như vậy, việc anh H. tặng cho vợ 1/2 nhà đất đã vi phạm cam kết của chính anh.
Cuối cùng, tòa cũng xác định ông bà L. sở hữu cả 2 căn nhà. Tuy nhiên, ông bà không hề vui, bởi gia đình con trai họ đã tan vỡ. Tất cả cũng chỉ vì lợi ích vật chất.
TAM THUẬT